Mô hình này dựa trên phương thức cân đối thu – chi dài hạn, số dư của quỹ được tích lũy qua các năm. Dựa vào phương pháp thống kê để xác định nguồn thu vào và chi ra của Quỹ BHXH để tính cân đối thu chi dài hạn.
Mô hình này có các ưu điểm là quỹ tiền tệ tập trung có số tồn tích rất lớn, một mặt sử dụng chi trả kịp thời các nhu cầu chi do Quỹ BHXH bảo đảm, mặt khác tham gia đầu tư vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ vừa góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tuy nhiên mô hình này cũng tồn tại nhược điểm. Tính cân đối quỹ phức tạp, độ chính xác không cao. Bởi cân đối quỹ dựa trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế – xã hội dự báo. Quỹ sẽ gặp khó khăn do sự biến động kinh tế từng thời kỳ, sự thay đổi về cơ cấu dân số, tuổi tác…
Trong mô hình tồn tích có hai loại cơ bản: tồn tích cá nhân và tồn tích cộng đồng.
Theo mô hình tồn tích cá nhân, mỗi người lao động có một hoặc nhiều tài khoản cá nhân để lưu giữ, tích lũy toàn bộ số tiền đóng góp của chủ sử dụng lao động và bản thân người lao động và tiền lãi thu được. Khi người lao động hội đủ các điều kiện để hưởng các chế độ BHXH thì sẽ được quyền sử dụng số tiền từ tài khoản của họ.Theo mô hình này thì Quỹ BHXH sẽ không bao giờ mất cân đối, đóng bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Tuy nhiên mô hình này làm mất đi bản chất cộng đồng chia sẻ, lấy số đông bù số ít của BHXH, mô hình này chỉ mang tính chất tiết kiệm cá nhân.
Ở mô hình tồn tích cộng đồng thì mọi nguồn đóng góp sẽ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, thống nhất thuộc sở hữu của tất cả những người tham gia. Mô hình này thể hiện rõ tính chất chia sẻ rủi ro, số đông bù số ít vốn là nguyên tắc hoạt động và cũng là bản chất của BHXH. Hiện nay Quỹ BHXH tại Việt Nam đang được thiết kế theo mô hình này.